CHIỀU TỐI (MỘ) - BÌNH GIẢNG BÀI THƠ CHIỀU TỐI CỦA HỒ CHÍ MINH
1.NKTT là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch HCM. Được ra đời trong khoảng thời gian từ 8/1942 - 9/1943 khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, tập thơ là bức chân dung tự họa của một người chiến sĩ cách mạng kiên cường với tâm hồn, tấm lòng nhân đạo bao la luôn hướng về tổ quốc, là bức tranh cụ thể đến chi tiết về nhà tù và một phần xã hội TQ trong những năm tháng mà Quốc dân đảng nắm quyền.
Trong tập thơ trên, chiều tối (mộ) là một áng thơ tuyệt bút, thể hiện sâu sắc tâm hồn cao đẹp của nhà thơ chiến sĩ HCM.
2. Hai câu thơ đầu:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Mở đầu bài thơ, bằng vài nét chấm phá đơn sơ theo bút pháp cổ điển, Bác đã dựng lên một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước khi chiều tốt. Đọc câu thơ, người đọc bắt gặp hình ảnh… đó là những hình ảnh ước lệ quen thuộc thường được sử dụng trong thơ xưa nhưng ở đây nó mang hơi thở của tinh thần hiện đại.
+ Một cánh chim bay về tổ, về nơi núi rừng khi chiều buông xuống là hình ảnh ta thường bắt gặp trong thơ ca cổ điển phương Đông. Đọc câu thơ của Người, gợi nhớ tới cánh chim trong ca dao “chim bay về núi tối rồi”; gợi nhớ tới cánh chim qua ánh mắt nàng Kiều trong thơ của đại thi hào dân tộc ND: “chim hôm thoi thót về rừng”; gợi nhớ tới cánh chim qua cái nhìn của người lữ thứ trong thơ BHTQ: “ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”… như vậy cánh chim là hình ảnh quen thuộc mang nghĩa tượng trưng cho buổi chiều tà, vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian. Cánh chim trong thơ xưa là vậy, còn trong thơ của Bác thì sao? Trong thơ của Bác thì hình ảnh quen thuộc đó cũng gợi không gian, gợi buổi chiều nơi rừng núi. Có nghĩa sử dụng hình ảnh này Bác vẫn tiếp truyền thống trong thơ xưa, nhưng trong quá trình kế thừa tiếp thu đó còn có tinh thần sáng tạo. Nếu như trong thơ xưa, hình ảnh cánh chim chỉ được quan sát từ trạng thái vận động bên ngoài (cánh chim bay) thì trong thơ Bác lại là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái Tôi cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên: Suốt một ngày bay đi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường cũng đang khao khát tìm được một nơi nghỉ tạm.
+ Cùng với “quyện điểu… lâm” là “cô… mạn”. Ở câu thơ thứ hai này, bản dịch đã dịch khá hay và uyển chuyển nhưng đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết ý nghĩa của 2 từ “mạn mạn” nên đã làm mất đi vẻ đơn độc và nhịp bay chầm chậm của những đám mây. Đó không chỉ là một “chòm… không” mà là một chòm mây cô đơn, lẻ loi, lững lờ trôi chầm chậm giữa bầu trời. Xét trong mối quan hệ với thơ xưa thì đây cũng là hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng mà cổ nhân hay sử dụng. Đọc câu thơ khiến ta nhớ tới… Nhưng nếu như trong thơ xưa áng mây trắng ngàn năm gợi sự vĩnh hằng, tầng mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn thì trong thơ Bác nó mang bao nỗi khắc khoải mong chờ. Nó gợi cảm giác về cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của chiều thu nơi núi rừng Quảng Tây. Nó không chỉ gợi một tâm hồn ung dung, thư thái khi đứng trước trời mây mà nó như có hồn, như mang tâm trạng, nó cũng cô đơn, lẻ loi như người đang ngắm nó.
Hai câu thơ thấm thía một nỗi buồn vì cảnh buồn mà người buồn. Cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong xum họp, chòm mây đơn độc trôi chầm chậm về phía trời xa gợi nỗi đau về thân phận lênh đênh nơi đất khách. Sống trong hoàn cảnh đó bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết, trong nỗi buồn người đọc vẫn thấy ở đó một ý trí và nghị lực, một phong thái ung dung và sự tự do hoàn toàn về tinh thần của nhà thơ chiến sĩ HCM. Trong hoàn cảnh gian lao Người vẫn mở rộng hồn mình rung cảm với những biến thái của thiên nhiên.
3. Hai câu cuối: Bức tranh cuộc sống tươi vui, khỏe khoắn.
Nếu trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét chấm phá, phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì sang đến hai câu thơ này bằng bút pháp tả thực, Bác đã dựng lên một bức tranh cs tươi vui, khỏe khoắn. Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang tối, cảm xúc con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Hình ảnh cô gái xay ngô đã trở thành hình ảnh trung tâm tạo nên sự vui tươi khỏe khoắn cho bức tranh. Thực ra, trong những bài thơ vịnh cảnh chiều hôm nổi tiếng thời xưa cũng thấp thoáng hình bóng con người: “Lom khom… mấy nhà” nhưng ở đó có người mà thiếu vắng sự sống, hình ảnh con người chỉ tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên. Còn ở đây, trong bài thơ của Bác, hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung khỏe khoắn, sống động đem lại chút hơi ấm, hạnh phúc cho con người, làm giảm đi cái không khí âm u lạnh lẽo của núi rừng heo hút.
- Hình ảnh “lò than rực hồng” được đánh giá là “điểm ngời sáng trong thơ”. Với chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, xóa tan đi những mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề được diễn tả trong ba câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Nó là nhãn tự của bài thơ, nó cân lại bài thơ, chỉ một chữ thôi, với 27 chữ khác nặng đến mấy đi chăng nữa. Chữ “hồng” đã đem đến giữa màn đêm một màu đỏ rực và cái màu đỏ ấy đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình của cô thôn nữ. Nó là màu đỏ trong t/c của Bác, là niềm tin, lạc quan yêu đời, là niềm cảm thông chia sẻ với những vất vả, niềm vui của người lao động dù Người đang phải sống trong cảnh tù đầy.
Hai câu thơ cuối cho ta thấy khuynh hướng vận động quen thuộc của hình tượng thơ trong thơ Bác: từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn tới vui ... đồng thời cho ta thấy sự cao đem trong tâm hồn của người.
Trong “NKTT”, “Chiều tối” mãi là bông hoa đẹp nhất!
(KĐH - Sưu tầm)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét